Chủ nhật, 15/06/2025, 01:14[GMT+7]

Nơi ra đời tờ báo in đầu tiên của người Việt ở miền trung

Thứ 7, 14/06/2025 | 10:10:43
585 lượt xem
Ngôi nhà cũ kỹ màu xanh nằm im lìm trên đường Huỳnh Thúc Kháng, Thành phố Huế, ít ai biết được, nơi đây từng là một địa chỉ đình đám: Tòa soạn báo Tiếng Dân, tờ báo in đầu tiên của người Việt tại miền trung, do Cụ Huỳnh Thúc Kháng thành lập.

Tờ báo đầu tiên của người Việt ở miền trung

Theo tài liệu của Bảo tàng Lịch sử Thành phố Huế, cụ Huỳnh Thúc Kháng là một chí sĩ yêu nước, học giả, thuở nhỏ có tên là Hanh, tự Giới Sanh, hiệu Minh Viên sau đổi thành Thúc Kháng, Cụ sinh ngày 1/10/1876 tại làng Thạnh Bình, tổng Tiên Giang Thượng (nay là xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam).

Cụ nổi tiếng thông minh từ nhỏ, năm Canh Tý (1900) Cụ đỗ Giải nguyên kỳ thi Hương; năm Giáp Thìn (1904) đỗ Tam Giáp đồng Tiến sĩ. Theo lệ, đỗ Tiến sĩ được vinh quy 3 tháng, hết hạn phải đến Bộ Lại học tập chính trị để ra làm quan, nhưng Cụ lại cáo bệnh ở nhà, không tha thiết đến chốn quan trường.

Cụ kết bạn thân với các cụ Phan Châu Trinh và Trần Quý Cáp, hình thành “bộ ba” tổ chức cổ súy phong trào Duy Tân với chủ thuyết “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” và tham gia phong trào chống thuế năm 1908. Vì lý do đó, Cụ bị bắt rồi bị đày ở tù tại Côn Đảo suốt 13 năm mới được trả tự do.           

Từ một tù nhân chính trị “làm tổn hại đến nhà nước bảo hộ qua các cuộc dấy loạn”, lúc ở Côn Đảo về ít lâu lại đắc cử vào Viện Dân biểu Trung Kỳ, Cụ Huỳnh đã làm cho chính quyền thực dân và phong kiến Nam triều đặc biệt quan ngại, do uy tín của Cụ rất lớn trong các tầng lớp nhân dân Trung Kỳ, nhất là ở Quảng Nam quê hương của Cụ.

Trong bối cảnh đất nước ta đang ở giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, Kinh đô Huế trở thành tâm điểm điển hình cho vấn đề giao lưu, tiếp xúc văn hóa và văn minh Việt - Pháp, được thể hiện rõ nét trên nhiều phương diện, đặc biệt là về tư tưởng.

Thực dân Pháp ban hành những chính sách hà khắc, bóc lột nặng nề, dã man đối với dân nghèo và người lao động. Đời sống của họ trở nên khốn quẫn, phải bán sức lao động của mình cho địa chủ để đổi lấy miếng ăn, hoặc bỏ quê tha phương cầu thực. Công nhân lao động ở Huế cũng chịu cảnh một cổ hai tròng, họ nung nấu ý chí căm thù thực dân phong kiến.

Những chính sách đó đã có tác động lớn tới tình hình chính trị ở Huế gây ra xáo trộn lớn, tạo điều kiện cho phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân đòi các quyền tự do dân chủ, dân sinh chống chiến tranh phát xít, chống phản động thuộc địa diễn ra sôi nổi trên phạm vi cả nước nói chung và ở Thừa Thiên Huế nói riêng.

Chính trong bối cảnh chính trị - xã hội chịu nhiều áp lực, thậm chí là xung đột, nhất là khi sức mạnh chính trị của triều đình Huế hoàn toàn bị kiềm tỏa bởi sự hiện diện của chế độ bảo hộ Pháp quốc, thì bản lĩnh quốc gia và bản sắc dân tộc càng có nhu cầu và điều kiện để thể hiện, những vấn đề then chốt nhất là văn hóa và giáo dục. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà ở Huế đã diễn ra nhiều hoạt động mạnh mẽ tiêu biểu cho xu hướng canh tân, trong đó đáng chú ý là trên phương diện báo chí, đã nói lên những yêu cầu, bức bách trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ.

Huỳnh Thúc Kháng tự truyện (Anh Minh dịch và xuất bản năm 1963) - Ảnh: Bảo tàng Đà Nẵng

Trước tình thế xã hội “cần tiếng nói của Dân, của công lý” để vạch mặt tất cả bọn xu thời, bọn quan lại sâu mọt, bọn cường hào đục khoét nhân dân, sau thời gian suy nghĩ, nung nấu về lợi thế của truyền thông, Cụ Huỳnh Thúc Kháng liền lập ra tờ báo Tiếng Dân, lấy báo chí làm phương tiện đấu tranh, xem đây là vũ khí lợi hại để phục vụ quảng đại quần chúng, nhất là người lao động bị áp bức, bóc lột.

Tuy nhiên, thời điểm thành lập tờ báo, thực dân Pháp có nhiều quy định khắt khe về tự do ngôn luận.

Ngày 29/7/1881, Quốc hội Pháp đã thông qua đạo luật thừa nhận quyền tự do báo chí, cho phép áp dụng tại chính quốc cũng như tại các xứ thuộc địa. Nhưng chỉ một thời gian ngắn, thực dân Pháp đã sớm nhận ra sự nguy hiểm của bộ Luật 1881 về quyền tự do báo chí ở Đông Dương. Một mặt, chúng vẫn thừa nhận cho báo chí tiếng Pháp được tự do xuất bản, mặt khác chúng lại đưa Sắc lệnh ngày 30/12/1898, buộc tất cả các tờ báo chữ Việt, chữ Trung Hoa và các thứ chữ khác phải có giấy phép trước khi xuất bản.

Chính vì sự khắc nghiệt này, ngay cả đối với Bắc Kỳ, Nam Kỳ, nhiều tờ báo lúc đầu đều do người Pháp đứng tên, dù đó là sự toan tính của giới thực dân. Ở Trung Kỳ việc xuất bản một tờ báo, nhất là báo chữ Quốc ngữ khó khăn phức tạp hơn nhiều. Người dân Trung Kỳ muốn đọc báo thì phải mua từ trong nam ra hay ngoài bắc đưa vào. 

Chân dung cụ Huỳnh Thúc Kháng. Ảnh tư liệu

Lúc đầu, Cụ Huỳnh định đặt tên là báo “Trung Thanh”, tức tiếng nói của Trung Kỳ. Có người đề nghị lấy tên là “Dân Thanh”, Cụ Huỳnh còn phân vân nên tìm đến ngôi nhà tranh ở dốc Bến Ngự hỏi thêm ý kiến của Cụ Phan Bội Châu.

Cụ Phan đã góp ý với Cụ Huỳnh: “Đã là báo quốc văn thì đặt tên theo tiếng mẹ đẻ là phải, cứ gọi là Tiếng Dân”. Cụ Huỳnh tiếp thu ý kiến của Cụ Phan và đặt tên Tiếng Dân “nghĩa là dân lên tiếng”.

Chính vì mục đích, tôn chỉ đúng đắn, hợp thời thế, thời cuộc, báo Tiếng Dân của Cụ Huỳnh Thúc Kháng đã nhận được sự hợp tác của nhiều cây bút danh tiếng như Sào Nam hay Việt Điểu (tức Phan Bội Châu), Trần Đình Phiên, Đào Duy Anh, Lạc Nhân (Nguyễn Quý Hương)…

Theo Cụ Huỳnh: “Dân là đầu mối của nước, báo này mang tên Tiếng Dân vì trong thực tế phải nhờ đến báo chí thì tiếng nói của dân mới bộc lộ ra được”. Đó chính là tuyên ngôn do Cụ viết trong số báo ra ngày 13/8/1927.

Hành trình vượt muôn ngàn khó khăn của tờ báo

Tài liệu của Bảo tàng Lịch sử Thành phố Huế cho biết, để vượt qua được những quy định gắt gao của thực dân Pháp, những người chủ trương phải thành lập một“Công ty Hợp cổ”có tên (Société en com­mandite par actions) tạm dịch là“Công ty Huỳnh Thúc Kháng”.

Cụ Huỳnh Thúc Kháng đã giao cho Cụ Đào Duy Anh khởi thảo điều lệ của công ty và tuyên truyền cùng huy động vốn. Nhưng điều hành một tờ báo như thế nào, không một ai trong những người sáng lập có kinh nghiệm về nghề nghiệp.

Tháng 9/1926, Cụ Huỳnh Thúc Kháng cử Cụ Đào Duy Anh đi Sài Gòn tìm hiểu công việc làm báo, nhất là cách tổ chức Bộ biên tập. Ở Sài Gòn, khoảng ba bốn tháng, cụ Đào Duy Anh trở lại Đà Nẵng để tiếp tục cùng mọi người tổ chức công ty.

Về phần mình, Cụ Huỳnh Thúc Kháng thường đích thân ra Huế (đến Tòa Khâm sứ Trung Kỳ) gửi đơn trình bày xin phép thành lập tờ báo, trong những lần đó Cụ về nhà ông bà Nguyễn Khoa Tùng tại số 3 rue Jules Ferry (nay là đường Nguyễn Sinh Cung).

Từ ngôi nhà này, ngày 9/10/1926, Cụ Huỳnh viết bức thư bằng tiếng Pháp gửi cho Khâm sứ Trung Kỳ, đề nghị can thiệp giúp đỡ để tờ báo“Tiếng Dân”của Cụ sớm được xuất bản.

Trong suốt thời gian thành lập, tờ báo đã thu hút sự quan tâm của tất cả các phần tử tiến bộ ở các tỉnh Trung Kỳ. Ở Đà Nẵng, nhà Nguyễn Xương Thái là nơi Huỳnh Thúc Kháng ở, ngày nào cũng có thanh niên và các nhân sĩ lui tới thăm hỏi, trao đổi ý kiến xung quanh vấn đề ra báo, mọi người đều háo hức mong chờ. Thỉnh thoảng ở các tỉnh, có những nhóm tiến bộ tự nhiên hình thành và cử người đến Đà Nẵng để thăm và báo cáo với Cụ Huỳnh về tình hình ủng hộ của đồng bào tiến bộ ở mỗi nơi.

Ở mỗi tỉnh có những người tự nguyện tuyên truyền cho báo Tiếng Dân và kêu gọi góp cổ phần để thành lập Công ty Huỳnh Thúc Kháng. Đến tháng 2/1927, Công ty đã thu góp được một số cổ phần hơn 30.000 đồng.

“Tôi là nhà cách mạng công khai, tôi đấu tranh cho quyền lợi của dân tộc Việt Nam một cách công khai. Vì đất nước Việt Nam có biên cương và lãnh thổ công khai trên bản đồ thế giới. Cho nên, tôi cũng công khai nói lên tiếng nói của người Việt Nam yêu chuộng hòa bình, độc lập, tự do và tự chủ. Do đó, tôi thách đố mọi trừng phạt và hiểm nguy đến với cá nhân tôi” - Huỳnh Thúc Kháng, Báo Tiếng Dân, số ra ngày 1/5/1929

Theo chương trình của cụ Huỳnh và những cộng sự báo Tiếng Dân, báo ra 2 số/tuần, vào ngày thứ Tư và thứ Bảy, với lý tưởng phục vụ lợi ích quốc gia, nhằm giúp chính quyền biết được nguyện vọng của người dân; hỗ trợ việc giáo dục đạo đức, tri thức, chính trị và kinh tế cho người dân Việt Nam. Quyết định cho phép thành lập tờ báo Tiếng Dân đã được Toàn quyền Đông Dương, Pasquier  ký ngày 12/2/1927, nhưng với điều kiện tòa soạn phải đặt tại Huế, gần Khâm sứ Trung Kỳ cho dễ quản.

Việc thay đổi địa điểm đặt tòa soạn, Cụ Huỳnh giao nhiệm vụ cho ông Trần Đình Phiên ra Huế tìm mua một ngôi nhà vừa làm trụ sở, vừa làm nơi in báo, và ông đã thuê được một ngôi nhà ở địa chỉ số 123 đường Đông Ba, Huế, (nay là số 193 đường Huỳnh Thúc Kháng).

Bên cạnh đó, Cụ Huỳnh cùng với Nguyễn Xương Thái và Đào Duy Anh tức tốc ra Hà Nội để mua các dụng cụ in báo. Được bạn bè ở Đà Nẵng cho mượn một chiếc xe ô tô, ba người lên đường ra bắc, qua mỗi tỉnh đều tranh thủ ghé lại để tiếp xúc với những người hâm mộ và vận động ủng hộ tờ báo.

Đến đâu, Cụ Huỳnh cũng được hoan nghênh nhiệt liệt. Có những người ở xa tận đầu tỉnh hay cuối tỉnh, thậm chí ở sát miền thượng du, cũng lặn lội tìm về tỉnh lỵ để ra mắt Cụ.

Đến Hà Nội, mọi việc giao dịch mua các dụng cụ in và thuê công nhân, đều có những người nhiệt tình tự nguyện đứng ra lo liệu. Lúc bấy giờ ông Mai Du Lân, Chủ nhiệm báo Thực Nghiệp tại Hà Nội có nhã ý nhường lại cho Cụ Huỳnh một máy in còn mới. Nhà in Nghiêm Hàm cũng ủng hộ bằng cách đưa thợ nhà in vào Huế trợ lực. Đây cũng là dịp để Cụ Huỳnh tiếp xúc với các nhân sĩ Bắc Hà, mở rộng quan hệ xã hội.

Ảnh buổi lễ kỷ niệm Đệ Thập Châu Niên báo Tiếng Dân Huế tháng 10/1937 do cụ Huỳnh làm Chủ nhiệm (người ngồi giữa cầm quạt) chụp tại tòa soạn báo Tiếng Dân, cũng là trụ sở công ty Huỳnh Thúc Kháng. - Ảnh: Bảo tàng Đà Nẵng.


Ở Huế, có cụ Trần Kiêm Trình“là một nhân sĩ có danh vọng và đức độ”đã cho những người sáng lập tờ báo đến ở nhờ nhà mình hàng tháng trời, rồi thuê nhà giúp.

Cùng giúp cụ Trần Kiêm Trình còn có người cháu gọi bằng cậu là Phạm Đăng Nghiệp, là cháu gọi Đức Thái hậu Từ Dũ (mẹ vua Tự Đức) bằng cô, đã giúp chọn mua ngôi nhà số 123 đường Đông Ba để đặt Tòa soạn và nhà in báo Tiếng Dân, sau này Ông trở thành Phó Quản lý tờ báo và Công ty Huỳnh Thúc Kháng.

Sau khi mua dụng cụ in dưới sự chỉ đạo công việc của Cụ Huỳnh, nhà in và Tòa soạn báo Tiếng Dân nhanh chóng được hình thành.

Ngày 10/8/1927, báo Tiếng Dân ra số báo đầu tiên. Từ đây, Cụ Huỳnh Thúc Kháng, một nhân sĩ xứ Quảng đã trở thành nhân vật nổi tiếng của đất thần kinh, vừa là Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ (nhiệm kỳ 1926-1928), Quản lý điều hành Công ty in Huỳnh Thúc Kháng và Chủ nhiệm kiêm Chủ bút một tờ báo lớn, báo Tiếng Dân.

Viết cho dân dễ nhớ, dễ hiểu

Để xuất bản những số báo đầu, Cụ Huỳnh đã chuẩn bị một loạt các bài xã luận rất kỹ. Tuy viết văn xuôi, nhưng có xen biền ngẫu, bài nào cụ cũng thuộc lòng và đọc cho mọi người nghe trước để hỏi ý kiến.

Theo Cụ Đào Duy Anh, tuy Cụ mới viết quốc văn lần đầu, văn chương về hình thức thì hơi xưa, nhưng như thế chính lại dễ hấp dẫn người đọc vì điêu luyện và chan chứa nhiệt tình. Có lẽ những bài viết của Cụ Huỳnh đối với độc giả chắc sẽ có nhiều người thuộc lòng để có dịp thì đọc lại cho nhau nghe, thậm chí người không biết chữ cũng có thể nghe qua lời kể như một loại văn chương truyền khẩu.

Thí dụ, trong số báo đầu tiên, trang đầu bên góc trái có bài “Báo Tiếng dân ra đời” của cụ Huỳnh:

“Báo Tiếng Dân ra đời!
Báo Tiếng Dân ra đời!
Báo Trung Kỳ ra đời!
Báo Tiếng Dân ở Kinh đô nước Việt Nam ta mới ra đời!
Muộn màng thay! Tủi buồn thay! Song cũng gắng gượng thay! Ốm đau mang nặng, ngậm đắng nuốt cay đã mấy mươi năm mà nay mới lọt lòng mẹ ra thấy chút bóng sáng trong trời đất!
Oe! Oe! Oe! Rời đất một tiếng khóc!”…

Hay trong bài giải thích tên báo, Cụ Huỳnh Thúc Kháng viết: “Đức Khổng Tử có nói: “Đặt tên ra cốt nói được; nói cốt làm được, nên người quân tử không khi nào nói xằng” (Danh chi tất khả ngôn dã, ngôn chi tất khả hành dã, quân tử ư kỳ ngôn vô sở cầu nhi dĩ hỷ).

Bản báo đã đặt tên là TIẾNG DÂN, thì tiếng dân là cái chân sắc của Bản báo, Bản báo xin trông cái tên mà nhớ lấy cái nghĩa, mà anh em đồng bào cũng có thể nghe cái tên mà hiểu được nửa phần, không cần phải giải thích cho dài vậy”.

Cách đặt tên các bài viết cũng rất cụ thể, dễ hiểu, gần gũi: “Lời nói ngọt ở trong có mùi đắng – Bức thơ của một quân nhân Nhật-bản gởi cho bạn đồng học Trung-hoa”, “Tâm lý với thực tế không cùng đi với nhau”, “Nếu quân Nhật đánh Hoa-nam thì không quân Tàu sẽ ném bom phá tán Đài-loan, cuộc chiến-tranh Trung – Nhật sẽ thành cuộc chiến tranh Nga – Nhật chăng?”, “Nhật xung đột với Pháp và với Nga – Nhật quyết chiến, Trung-hoa cũng quyết chống”…

Cách quảng cáo ngay trên tờ báo cũng rất gần gũi: Ở số báo 1098, ra ngày 10/8/1937, giữa trang đầu có đóng khung dòng quảng cáo: “Số này 8 trang, rất nhiều bài vui thú”.

Hoạt động liên tục từ 1927 đến 1943, báo Tiếng Dân đã ra được 1.766 số, trở thành tờ báo lâu năm nhất (17 năm) phản ánh những sự kiện lịch sử diễn ra ở Trung Kỳ. Theo dự kiến, báo xuất bản một tuần 2 số, về sau do nhu cầu lớn, báo ra một tuần 3 số (thứ 3, thứ 5 và thứ 7).

Báo Tiếng Dân số 675 ra ngày 21/3/1934.

Trong quá trình hoạt động, báo đã xuất bản được 5 số trong đó có đăng bài về chủ quyền thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Báo Tiếng Dân có 3 loại, tờ báo 2 trang, tờ báo 4 trang và tờ báo 8 trang (tùy theo thời lượng thông tin để phát hành). Về khổ giấy, báo có 2 khổ chính: Khổ (42 x 58) và khổ (46 x 60).

Từ năm 1930, Báo có sự đóng góp của những người cộng sản như Nguyễn Chí Diểu, Võ Nguyên Giáp, Hải Triều…

Năm 1937, kỷ niệm 10 năm báo Tiếng Dân ra đời, Cụ Huỳnh cho xuất bản tờ báo đặc biệt được in toàn màu đỏ, báo được in theo kỹ thuật in Litô tại nhà in Huỳnh Thúc Kháng.

Báo Tiếng Dân đi theo mục tiêu vì dân, theo hướng chấn hưng đất nước, cho nên chính quyền thuộc địa Pháp luôn có sự kiểm soát gắt gao, như chịu sự quản lý trực tiếp, lưu trữ và theo dõi sát sao của Sở Liêm phóng.

Giám đốc Sở Liêm phóng Trung Kỳ L. Sogny (tháng 3/1927) đã cho lập hẳn một ban kiểm soát, không được xúc phạm tới chính trị Pháp và Nam triều. Trong quy trình kiểm duyệt, Tòa soạn phải nộp hai bản cho Sở Liêm phóng cùng bản dịch tiếng Pháp, duyệt xong sẽ trả lại một bản, được ký, đóng dấu và Visa pour publication (được ấn hành). Sau khi báo ấn hành, phải nộp lưu chiểu ở hai kho lưu trữ của Tòa Khâm sứ và Cảnh sát.

Khi quân Nhật vào Đông Dương, mở tòa lãnh sự đầu tiên tại Huế, thực dân Pháp thấy lo ngại, không muốn để một tờ báo đối lập với chính quyền lên tiếng chỉ trích nhà nước, lại thấy có dấu hiệu Kỳ Ngoại hầu Cường Để muốn lôi kéo Cụ Huỳnh, nên người Pháp ra lệnh đình bản tờ báo ngày 24/4/1943 (ngày 20 tháng 3 năm Quý vị) sau 17 năm hoạt động. Tuy nhiên nhà in báo Tiếng Dân vẫn tiếp tục hoạt động.

Tại hội nghị văn hóa toàn quốc (tháng 7-1948) tổ chức ở chiến khu Việt Bắc, Tổng Bí thư Trường Chinh đã đánh giá về 16 năm hào khí của báo Tiếng Dân: "Thét tiếng dân giữa kinh thành Huế".

Tiến sĩ Nguyễn Văn Hoa, Hội Khoa học Lịch sử Huế đánh giá, Báo Tiếng Dân đã nói lên những tiếng nói tiến bộ của trí thức và tiểu tư sản, tuyên truyền cho phong trào kháng Pháp, đặc biệt còn có những bài báo cổ vũ những tấm gương chống Pháp…

Một ấn bản Báo Tiếng Dân được trưng bày tại Bảo tàng báo chí Việt Nam.

Cần được tu bổ và xây dựng thành một bảo tàng

Hiện nay, trải qua nhiều biến cố của lịch sử, Trụ sở Tòa soạn báo Tiếng Dân và Công ty in Huỳnh Thúc Kháng vẫn giữ lại cơ bản diện tích và hiện trạng như ban đầu, với một mặt hướng ra đường đường Đông Ba (nay là đường Huỳnh Thúc Kháng) và khu nhà in hướng ra đường Gia Long (nay là đường Phan Đăng Lưu). Năm 1956, đường Đông Ba được đổi tên thành đường Huỳnh Thúc Kháng và số nhà từ 123 được đổi thành 193 và giữ cho đến ngày nay.

Thời gian, chiến tranh và thời tiết khắc nghiệt đã khiến cho khu nhà xuống cấp nghiêm trọng, rêu phủ khắp nơi.

Sau khi báo Tiếng Dân bị đình chỉ phát hành, Công ty Huỳnh Thúc Kháng và Nhà in giải thể vào đầu năm 1946 trước lúc Cụ Huỳnh ra Hà Nội nhậm chức Bộ trưởng Nội vụ. Trụ sở tòa soạn được Cụ Huỳnh cho Hội đồng châu Quảng Nam sử dụng làm Ký túc xá cho sinh viên Quảng Nam ra Huế học. Sau năm 1975, trụ sở này được bố trí cho một số cán bộ Trường Đại học Y Huế (nay là Trường Đại học Y Dược Huế) và trở thành khu tập thể, gồm 6 hộ.

Trong quá trình ở tại Trụ sở tòa soạn báo Tiếng Dân, 6 hộ này đã cho sửa chữa, xây một số vách ngăn làm phòng ăn ở, sinh hoạt riêng cho mỗi gia đình. Một số hiện trạng ngôi nhà có thay đổi như: Mặt tiền (đường Huỳnh Thúc Kháng) phía bên phải lúc đầu là cửa sổ thì nay được thay cửa ra vào. Biển hiệu báo Tiếng Dân bị tháo dỡ, nội thất bên trong, như bàn thờ và cơ sở làm việc kể cả nhà in được đưa ra khỏi Trụ sở tòa soạn báo Tiếng Dân lúc nào không ai biết.

Trong quá trình quản lý, để bảo đảm an toàn cho di tích, Trung tâm Phát triển Quỹ đất tỉnh Thừa Thiên Huế có sửa chữa, lợp lại mái tôn tầng 2, ngôi nhà ở phía sau đường Phan Đăng Lưu, sơn quét vôi toàn bộ ngôi nhà…

Trong buổi đón nhận bằng xếp hạng di tích lịch sử trụ sở Báo Tiếng Dân ngày 26/4/2019, đại diện Bảo tàng lịch sử Thừa Thiên - Huế khi đó cho biết, trụ sở Báo Tiếng Dân dự kiến sẽ phục dựng lại một số hạng mục công trình theo hiện trạng ban đầu gồm: biển hiệu báo Tiếng Dân, làm lại cửa đi và một số nội thất bên trong di tích, đồng thời cho tháo dỡ phần cơi nới do các hộ dân sống trong di tích sau 1975. Ngoài ra, di tích được xác định là sẽ khai thác theo hướng bảo tàng báo chí thu nhỏ, đồng thời là nơi để các nhà báo ở Thừa Thiên - Huế lui tới đặt câu lạc bộ, sinh hoạt, trao đổi chuyên môn, nghiệp vụ.

Tuy nhiên, theo Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Huế Phan Thanh Hải, hiện tại chưa có dự án nào để trùng tu Trụ sở Tòa soạn Báo Tiếng Dân. Việc xã hội hóa cũng rất khó, vì hiện nay luật chưa cho phép sử dụng các tài sản dạng di tích để đầu tư công. Đây là vướng mắc chung với các di tích trong cả nước.

Hiện tại, hiện trạng Tòa soạn Báo Tiếng Dân đã xuống cấp nhiều do một thời gian dài bị tận dụng làm nhà ở, nhiều hạng mục không còn, một số chi tiết trong nhà đã bị thất lạc, như biển hiệu, đồ nội thất, bàn thờ…

Tiến sĩ Nguyễn Văn Hoa, Hội Khoa học Lịch sử cho rằng, cần phải trùng tu, tu bổ lại “địa chỉ đỏ” này, bởi những con người và sự kiện gắn bó với địa điểm này không chỉ có ý nghĩa và giá trị lịch sử lớn đối với Thành phố Huế, với miền trung, mà còn với nền báo chí Cách mạng Việt Nam.

Theo: nhandan.vn 

 

 

 

 

 

  • Từ khóa